Thứ Ba, 13 tháng 11, 2012

Nhà thờ Giáo xứ Nam Am- Hải Phòng



Vị Trí
Địa chỉ : Tam Cường, Vĩnh Bảo, Hải Phòng. (bản đồ)
Chánh xứ : Linh mục Dominico Nguyễn Văn Phòng
Phó xứ     : Linh mục
Tel
(031) 3884450
E-mail
giaoxunamam@gmail.com
Web site
 http://www.gxnamam.com/
Năm thành lập
1689
Bổn Mạng

Số giáo dân
4899
Giờ lễ
Chúa nhật     :  4:30   -   16:00   -   19:30.
Ngày thường :  4:30   -   19:30 (thứ 4,6)                      

Lịch sử
PHẦN I: SƠ LƯỢC VỀ ĐẶC ĐIỂM TÌNH HÌNH XỨ ĐẠO
 
 Thưa Quý vị: Nam Am trung tâm một xứ đạo công giáo lớn gồm có 24 họ và 4 khu nhà xứ, nằm xen kẽ vùng duyên hải Vĩnh Bảo. Cùng có tiếng Am với 18 làng Am khác, trước đây thuộc lục tổng huyện Vĩnh Lại, phủ Hạ Hồng, tỉnh Hải Dương, nay thuộc xã Tam Cường, huyện Vĩnh Bảo, thành phố Hải Phòng.
 Cư dân các làng Am trước đây thuộc vùng Lãng Sơn, Am Dương, hoặc Phù Lãm Khánh Am bị Mã Viện bắt trong trận Lãng Sơn năm (40 - 44 đầu công nguyên) rồi đày ra bờ biển Vĩnh Lại mở mang ruộng muối, khai khẩn đất đai lập trang trại (TĐBKĐDHP). 
Đất đai hình thành đến đâu con người tiến dần ra khai phá sinh cơ lập nghiệp, mở mang cộng đồng. Theo những cứ liệu lịch sử nhiều bia ký, thần phả, gia phả, truyền thuyết ở những làng quê Lục Tổng Vĩnh Lại, hiện còn lưu giữ được thì 46 làng thuộc Lục Tổng Vĩnh Lại nói chung, trong đó có 18 làng Am nói riêng đã được thành lập làng từ thời Lý, thế kỷ thứ XI (LSĐBVB). 
Nam Am trung tâm xứ nơi có ruộng đất xen canh với Trung Am nơi sinh trạng trình Nguyễn Bỉnh Khiêm, lại có ruộng đất xen kẽ với Cổ Am, nơi có 3 họ đạo nằm trong xứ, là nơi đất nhiều quan đã được sử sách ghi. "Đông Cổ Am Nam hành thiện" cùng chung xứ đạo với Hội Am có bảng nhãn Đào Công Chính từng được mệnh danh thánh thuốc nam Hội Am, Vĩnh Lại. 
Theo truyền ngôn Nam Am từ xa xưa đã có quan Nguyễn Văn Mạnh quen gọi quan già Thiên Hộ từng chỉ huy những đạo quân chống giặc ngoại xâm thắng lợi, được lộc vua ban thưởng 1000 hộ đống thuế cho cụ được hưởng. 
Nam Am được sinh ra và lớn lên trong một vùng địa linh nhân kiệt, có nhiều danh nhân, danh tướng đạo đức uyên bác, can trường, từng có nhiều cống hiến cho đất nước qua các thời kỳ lịch sử. 
Nam Am nơi được đón nhận Tin Mừng đầu tiên của vùng Lục Tổng Vĩnh Lại, những thập niên 1628 - 1630 của thế kỷ XVII đã có người được chịu phép Thánh Tẩy trên Kinh Đô là cụ Nguyễn Văn Mạnh. Năm 1631 - 1632 các thừa sai dòng tên đã tới Nam Am rao giảng Tin Mừng của Chúa, được mọi người dân Nam Am già trẻ gái trai đã một lòng đón nhận Tin Mừng một cách tự nguyện thực thụ. Vì vậy cả làng được chịu phép Thánh Tẩy cùng một dịp, trở thành một làng đạo công giáo toàn tòng vào cuối năm 1632, gần 60 năm sau, vào khoảng cuối năm 1689 Nam Am được thành lập xứ do các cha dòng thừa sai Đa Minh thành lập, từ đó trở thành trung tâm của xứ đạo có nhiều họ đạo trong vùng Lục Tổng Vĩnh Lại cùng thuộc xứ, nhận Đức Mẹ Mân Côi làm bổn mạng. Trên đất Nam Am xứ lúc ấy có 4 nhà thờ của 4 khu, mỗi khu có Thánh bổn mạng riêng, một nhà thờ xứ trên đất cổng hậu nhà xứ bây giờ gọi là nhà thờ Đức Mẹ. 
Xứ đạo Nam Am quá trình 376 năm kể từ ngày đón nhận Tin Mừng đến nay, trải qua những bước thăng trầm của lịch sử, xứ đạo luôn giữ được truyền thống sống đạo tốt lành, lập nhiều công phúc, được Giáo phận Hải Phòng, Toà Thánh Rôma ghi nhận "Nam Am một xứ đạo lớn và cổ kính, có tầm quan trọng ngay từ những ngày đầu khi Tin Mừng của Chúa được rao giảng tới mảnh đất của Giáo phận, và có nhiều công lao trong thời kỳ cấm cách" (Nguyên văn sắc phong năm toàn xá kỷ niệm 120 năm xây dựng nhà thờ gỗ lợp ngói) cùng dịp này hội đồng Linh mục Giáo phận Hải Phòng tặng 6 chữ vàng "Mến Tin, Trung Kiên, Triển Nở". Trước đó cố Đức Giám Mục Nguyễn Tùng Cương ban tặng : "Nam Am trái tim của Địa phận", tất cả những ghi nhận, ban tặng của các đấng thật là chân thành yêu thương và cảm mến. Thật vậy ngay từ những ngày đầu được thụ phong Giám Mục Đức Cha Hêrônimô Liêm người đã chọn Nam Am nơi đầu tiên cắm toà Giám mục Đông Đàng Ngoài lưu động từ (1841 - 1861) đời Giám Mục của ngài; nơi có tiểu chủng viện và đại chủng viện; nơi có sở của các cha thừa sai dòng Đa Minh đóng, do cha chính Massô Tế coi dòng từ 1841 - 1859. Vì thế Nam Am đã được đón đưa nhiều các đấng thừa sai khôn ngoan, đạo đức, học rộng tài cao đến làm mục vụ của dòng, của địa phận; rồi lại đưa nhiều đấng qua xứ Đông vào xứ Nam, lên xứ Bắc nhận nhiệm sở và rao giảng Tin Mừng, coi sóc bổn đạo trên địa phận Đông Đàng Ngoài rộng lớn. 
Nam Am là nơi được phục vụ những cuộc hội nghị lớn của toàn thể các cha Tây - Nam trong địa phận Đông Đàng Ngoài (gồm 5 giáo phận Bù Chu, Thái Bình, Bắc Ninh, Hải Phòng, Lạng Sơn hiện nay) bàn về phương hướng mục vụ dìu dắt con chiên bổn đạo sống đạo sau thời Minh Mạng cấm cách, do Đức Cha Liêm triệu tập và chủ trì vào ngày 30/6/1841 là hội nghị quan trọng có tính lịch sử. 
Nam Am còn được phục vụ tổ chức ngày Lễ Đầu Dòng 08/8/1844 tổ chức trọng thể tại Nam Am, hầu như các cha Tây - Nam trong Địa phận đều tập họp đông đủ, cả các tu sỹ, giáo dân thật đông về từ 8 ngày trước, dọn mình xưng tội rước lễ sốt sắng. 
Nam Am vinh dự được Đức Cha Liêm ngày 29/6/1847 cử hành Lễ tấn phong cha chính Marti Gia làm Giám mục phó, Cha AlCazan Hy được đặt làm cha chính cùng ngày, tại nhà thờ Thánh Nữ Anê khu Đoài Nam Am. 
Nam Am thời nguy nan, các nhà thờ bị rỡ xuống hết, các cha Tây - Nam đang ráo riết bị truy lùng săn bắt, thế mà hạ tuần tháng 6/1858 Đức Giám Mục Liêm, cha chính Hy, cha Tràng Đông đưa cha Nguyên là thầy sáu chức, người Tây Ban Nha mới sang Đông Xuyên, được truyền chức ngay tại Đông Xuyên, rồi ba đáng đưa sang Nam Am làm Lễ mở tay, lúc đó còn có Cha Massô Tế coi dòng, cụ Lý Lâm đầu mục đã nhờ nhà ngang cụ trùm Chức, để các đấng cử hành Thánh Lễ cùng cha Nguyên. Sau cha Nguyên làm Giám Mục gọi là Đức Cha Anton Colomer Lễ. 
Nam Am thời cấm cách giai đoạn vua Tự Đức cầm quyền, 4 nhà thờ của 4 khu, nhà thờ Đức Mẹ của xứ, khu vực nhà xứ, sở nhà dòng, nơi Đức Cha ở, tiểu chủng viện, nhà phước cất lên rỡ xuống nhiều lần đến cực nhọc.  
Một số đấng thừa sai từng làm mục vụ trên đất Nam Am rồi được phúc tử đạo, đã được phong hiển Thánh như: Đức Thánh Giám Mục Liêm; Đức Thánh Giám Mục An từng trông coi chủng viện nhiều năm ở Nam Am; Đức Thánh Giám Mục Xuyên đến học tiếng việt và làm mục vụ trên dưới 2 năm; Thánh Phêrô Bình từng làm cha xứ Nam Am gần 2 năm; Thánh Giuse Khang từng phòng bộ Đức Thánh Liêm biết bao lần từ Nam Am qua Đông Xuyên lên Kẻ Mốt Bắc Ninh và ngược lại.  
Các đấng tại xứ đạo được phúc tử đạo 22 đấng, đã được tôn phong hàng đáng kính: Nam Am có 6 đấng cha Phêrô Lương, Đôminicô Vũ Văn Lâm, Giuse Đại, Giuse Tuyên, Phêrô Tràng, Đôminicô Cầm. Họ xuân Điên có Phê-rô Phương, họ Lạng Am có Phê-rô Huấn. Họ Liêm Khê Phê-rô Tứ, Phê-rô Thứ, Đôminicô Ren, Giuse Đoán, Giuse Miện, Giuse Đản, Phê-rô Sùng. Hội Thượng Phê-rô Thận. Họ Vạn Hoạch Phê-rô Chuyển, Phanxicô Thế. Hội Bến Gioan Ất, họ Cống Hiền Tôma Khoa. An Quý Phê-rô Bao. Lộc Trạch hay Lương Trạch Giuse Viêm.
PHẦN 2. NHÀ THỜ CŨ:  
Từ khi ngưng cấm đạo tình hình được ổn định, năm 1864 Đức Cha Nghĩa được Đức Cha Hy phong làm Giám mục phó, và phân công phụ trách tái thiết trường thần học ở Nam Am, đang khi người tận tình tận tâm công việc truyền giáo mới, thì Chúa gọi người về năm 19/6/1869.  Trong thời gian này xứ đạo Nam Am được bình an phát triển lớn mạnh. Nhưng nhà thờ xứ tọa lạc trên đất cổng hậu bây giờ vừa bé, lại lợp tranh, Cha chính Guirro (Toàn) còn là Cha xứ Nam Am đã chính thức đề nghị Đức Giám Mục giáo phận cho rỡ 4 nhà thờ của 4 khu để làm một nhà thờ gỗ lớn, xây tường, lợp ngói, theo kiến trúc Nam phương: kẻ chuyền, lòng thuyền, dài 50m, rộng 16m, cao 11m, có niên hiệu khởi công phạt mộc (Tuế thứ mậu dần lục nguyệt nhị thập tam nhật tân tạo) tức ngày 23/6 Âm lịch 1878. Còn có bài vè ngày khai niên nhà thờ tức ngày khánh thành nhà thờ (ất dậu thất nguyệt) tức là tháng 7 Âm lịch 1885, như sau:  
Đội ơn Thiên Chúa cũng thương 
Muốn lập nhà thờ các đấng cũng cho
 
Bốn khu thì bốn nhà thờ
 
Bề trên bắt rỡ mang về một nơi
 
Đàn anh cho chí đàn em
 
Ra công gắn bó mới nên việc này
 
Làng nước người lo lấy tiền
 
Để cho thầy Dụng đi thu mang về
 
Thầy Phước tẩy sang bến bồ
 
Thầy nằm thầy nghĩ thầy lo một mình
 
Trong làng chẳng có ai thay
 
May sao gặp trận gió may
 
Bè trôi đến bến, bè rầy, đứng yên
 
Có lệnh Cha xứ phán truyền
 
Đào cừ cho gỗ về ngay mà làm
 
Phủ xứ tuân lệnh cha truyền
 
Đào sông khơi rãnh một tuần là xong
 
Cha đứng trong luỹ cha trông
 
Con chiên kéo gỗ thật vui trong lòng
 
Phạt mộc hai ba tháng sáu Mậu Dần
 
ất Dậu thất nguyệt khai niên nhà thờ
 
Tiếng đồn đi khắp gần xa
 
Trong Nam ngoài Bắc chẳng đâu cho bằng
 
Nhà Thờ Nam Am địa phận đông
 
 
Vậy thì từ ngày khởi công xây dựng đến ngày hoàn thành là 7 năm 1 tháng, nhà thờ được tọa lạc trên đất hiện nay. Ngày hoàn thành rước Đức Mẹ Mân Côi bổn mạng từ nhà thờ xứ cũ lên nhà thờ mới. Tượng Đức Mẹ Mân Côi được ngự giữa chính toà như bây giờ.  
Kể từ ngày hoàn thành nhà thờ đến 1998 nhà thờ tròn 120 năm, đã được Toà Thánh ban ơn toàn xá viếng nhà thờ một năm (31/5/1998 đến 31/5/1999), Đức Cha Giuse Maria Nguyễn Tùng Cương trịnh trọng dâng Thánh Lễ khai mạc năm toàn xá và trao sắc năm thánh viếng nhà thờ. Một Thánh lễ hết sức long trọng có đông đủ các Cha trong giáo phận, các nam nữ tu sỹ, 62 ban hành giáo các xứ trong Giáo phận và bà con giáo dân trong và ngoài giáo phận về dự lễ quá đông đến nỗi không chen được chân, ước tính có khoảng 15.000 người. Cả năm viếng nhà thờ có 283 đoàn, số giáo hữu viếng trên 30.000 người, trên 1000 người được tha mắc mớ về giáo luật. Nhà thờ được lĩnh ơn toàn xá về giá trị vật chất đã từng dồn từ 5 nhà thờ, và biết bao công sức của các đấng, các bậc tiên nhân đã xây dựng lên. Còn về giá trị tinh thần thì không có gì có thể so sánh được. Bởi từ nhà thờ này biết bao Kitô hữu đã được nền lành nên thánh… Nên phải giữ để trùng tu, tôn tạo không xây nhà kiểu mới.
PHẦN 3: NHÀ THỜ LÀM LẠI VÀ ĐƯỢC CUNG HIẾN VỚI TƯỚC HIỆU ROSIRIÔ.  
Thưa Quý vị: Từ một công trình nhà thờ gỗ được làm lại từ kiến trúc Nam phương. Kẻ chuyền, lòng thuyền, ngắn hẹp, thấp và nhiều cột sang kiến trúc Đông, Tây kết hợp hài hoà và nghệ thuật với quy mô hoành tráng. Kỹ thuật cao, chính xác, mỹ thuật bền đẹp, kiên cố. Có chiều dài 57m, không kể sân khấu cầu trượt và bậc chiều rộng không kể bậc 24 mét; Chiều cao tính từ cốt không 21m80; nhà chồng diêm mái trên mái dưới ; thềm hiên quyện suốt hiên trên, hiên dưới. 
Tầu, bẩy, ngưỡng, bao, cánh cửa khung khách, chạy dài suốt 12 gian, bốn mặt; ba tháp chuông tháp chính cao 50 mét; 2 tháp phụ mỗi cái cao 28m, tổng diện tích nhà thờ tính cả bậc lên xuống có chiều dài 75m x chiều rộng 27m = 2025m2. Hiện được tọa lạc trên khuôn viên 6500m2. Tất cả hệ thống tường vây xung quanh khuôn viên có hoa ánh sáng, trên có mái che, mũ tường là một dãy đèn lòng chiếu sáng, suốt khuôn viên; Cổng ra vào tượng đài bắt mái cong, theo mái cong đầu Nhà thờ; trung tâm kỳ đài một tượng Đức Mẹ bế Chúa Con, hai tay Chúa cầm vòng nguyệt quế đưa về phía trước; có ý trao vòng chiến thắng đó cho 4 đấng tử đạo đáng kính của quê hương Nam Am hiện đang yên nghỉ dưới chân Chúa và Đức Mẹ đứng. Xung quanh tượng đài từ dưới lên trên nóc có tứ vật long, ly, quy, phượng chầu chực. Sau kỳ đài là một vách núi dài 20m, rộng 3m, cao 6m với đá thiên nhiên được nhân tạo đúng quy cách của không gian 3 chiều, rất là kỹ mỹ thuật, như một dãy núi đá thật; trước kỳ đài là một công viên xinh đẹp: có thảm cỏ xanh xanh, cây cảnh xum xuê, hoa đơn đỏ thắm, dệu tím, dệu vàng được trồng đan xen trông thật vui cảnh. Xung quanh công viên là những hàng ghế đá để mọi người đến ngồi chiêm ngắm và cầu nguyện. Trước công viên là một phòng thư viện, một phòng truyền thống của xứ, một phòng khách và phòng họp. 
Trở lại mặt tiền nhà thờ, mặt dưới, sân khấu, bậc bước được ghép đá thiên nhiên, hai đầu bậc 2 con rồng Chầu nhật nguyệt, để chào đón mọi người đến cầu nguyện tham quan chiêm ngưỡng, hai bên nam bắc rồng chầu là 2 cầu trượt, được uốn lượn theo quy cách giao thông, giúp xe tang, xe lăn, xe hội lên xuống thuận lợi, hai bên có lan can bảo vệ an toàn, với tay viện của các tấm lan can được đúc bằng bê tông theo hình bán nguyệt, có hoa văn chữ thọ theo hình quả trám trên bề mặt, dưới đó là những con chiện thông phong, được gắn kết với nhau như những nhịp cầu nối tiếp nhau trông như một cái cầu, thật là xinh đẹp. Đầu cầu trượt 2 bên là hai cây đèn song song đối chiều 2 cây đèn trên đầu nhà thờ; có ý soi bước ra vào đền thờ trên và dưới được tỏ sáng; trên các cổ đèn. Được bắt 5 mái cong cho mỗi cột, có ý trang trí đẹp, cũng có ý là ngũ hành (Kim, Mộc, Thuỷ, Hoả, Thổ) đầu cột đèn là một quả bầu, được hoạ hai mầu khác nhau quấn quýt xunh quanh. Đó là một biểu tượng của triết học phương đông. Thái cực sinh lưỡng nghi (âm dương) lưỡng nghi sinh tứ tượng (tứ thời). Tứ tượng sinh bát quái (bát tuyết) bát quái: sinh muôn loài muôn vật. 
Thưa Quý vị : Công trình được khởi công xây dựng từ ngày 25/6/2001, khánh thành và Cung hiến ngày 15/10/2006. Suốt 13 năm chỉ những mong trên đẹp lòng Chúa, dưới đẹp lòng người tới thờ phượng tôn vinh và chiêm ngắm.  
Thế rồi nguyện ước ấy cứ ngày một hiện lên do bàn tay Chúa trời ban xuống. Để giờ đây từ xa hàng vài ba cây số, hướng về làng Nam Am, khách bốn phương đã nhận ra bóng tháp giáo đường nguy nga đồ sộ, và tiếng chuông reo ngân theo nốt nhạc son phe, như khích lệ nhắn nhủ, lôi cuốn lòng người. Lừng lững ngôi tháp đường tạc hình chữ Sơn (       ) (núi) lên không gian với dáng vóc tháp cổ kính, như dáng "các khuê văn" "nhị tầng thập mái" và những chéo đao với những cánh "vây rồng vươn tới" vẫy gọi 4 phương xa. 
Lại gần khiến ta càng ngạc nhiên khâm phục bàn tay các bác thợ mộc, thợ nề "lượn bây khắc đục, đắp vẽ" cất dựng, thêu dệt lên một công trình có quy mô hoành tráng, xứng danh trên đất nước. Toàn cảnh kiến trúc nhà thờ, tháp chuông, khuôn viên, sân khấu, cầu trượt, kỳ đài, lan can, cột đèn, công viên, tường vây, cổng ra vào, mang nặng dáng dấp kiến trúc cung đình. 
Mặt tiền nhà thờ, tháp chuông chúng ta còn dễ dàng nhận thấy sự kết hợp hài hoà giữa hai trường phái kiến trúc: Gothic và Á đông đồ sộ bề thế, có ý nghĩa cao siêu; đỉnh tháp chính là một thánh giá lớn dài 2m30, rộng 1m20 đứng trên quả bầu lớn có đường kính 1m20. Mang ý nghĩa cứu độ. Tiếp đó là đài hoa của chóp tháp, tiếp sau là mái một, mái 2 của tháp, dưới mái hai là toà Đức Mẹ Mân Côi, cửa toà các vanh cuốn, cửa võng kép được đắp vẽ công phu, thành toà vàng lộng lẫy; trong toà tượng Đức Mẹ Mân Côi Quan thầy bầu cử của Làng, xứ. Tượng cao 3 mét, chất liệu nhựa cao cấp bền lâu. Dưới chân toà chung quanh là một hiên quyện có cửa để ra vào toà làm vệ sinh, lau chùi, sửa chữa khi cần. Chung quanh có hàng lan can bảo vệ, trên lan can mặt tiền có tước hiệu Đền Thánh Rosariô. Mặt khác cũng là nơi chung chuyển lên đỉnh tháp chính để cắm cờ, thay cờ thường xuyên cho các ngày lễ tết trong năm. 
Dưới tầng tượng, là tầng treo 2 quả chuông đồng nguyên chất, xắm từ năm 1921 tại Pháp Quốc, tầng treo chuông ở giữa mái ba và mái bốn, xung quanh cổ mái được cuốn 12 cửa hoa thoáng rộng, nhằm cho tiếng chuông phát ra 4 phía không bị tức tiếng. Dưới mái 4 là một tầng rỗng bên trong, không có nền, quanh tháp được kiến trúc 12 cửa cuốn chớp, 20 vòng hoa thoáng nhằm hỗ trợ tiếng chuông phát ra to, lại mát cho người chỉnh chuông. Dưới chân các cửa chớp xung quanh tháp là một hiên quyện có lan can hàng chông, bảo vệ an toàn cho mọi người lên đó để tham quan chiêm ngắm, đồng thời cũng là hiên quyện từ tháp chính, sang các tháp phụ, và lên hiên quyện xung quanh mái một cửa nhà thờ, cụ thể: đi từ hành lang bên bấc tháp chính vòng lên đầu nhà thờ đi sang phía nam hết đầu nhà thờ, vòng lại hiên phía nam tháp chỉnh là một vòng tròn lên xuống. Giúp cho việc chiêm ngắm thiên nhiên cảnh vật, 4 phía trong vùng này được dễ dàng thuận lợi. Dưới tầng rỗng một tầng có nền làm gác đàn liên đới với tầng cuối cùng là cửa chính ra vào đền thánh. 
Tầng gác đàn, 3 mặt là cửa chớp, mặt tiền có vanh cuốn lớn, từ trung tâm trên kéo xuống hai bên my cửa chính, mặt cửa võng to đính theo, lòng cửa võng được đắp những cành hoa mai xinh xắn mềm mại; trên cửa võng vanh cuốn, một cuốn thư giữa có chữ, chất liệu bằng INOX Vàng mua tại Trung Quốc/ Đền Thánh Đức Mẹ Mân Côi Nam Am, trên my cửa chính vào đền thờ có một bức đại tự đề máy Hán tự: Trích trong sách phúc âm thánh Gioan, đoạn 10 câu 9 "Ngã Chi Môn" Ta là cửa có nghĩa ai qua ta mã vào thì sẽ được cứu. Người ấy ra vào và gặp được đồng cỏ (chất liệu chữ làm bằng INOX Vàng). Cánh cửa chính Nhà thờ bằng gỗ lim xanh, to cao dài 6m, rộng 4 mét, 2 cánh, mỗi cánh nặng 2 tấn, 2 cánh với lượng gỗ 3 khối; được chạm khắc mỹ thuật, cửa được đóng mở trên đường goòng; khi đóng lại ta thấy giữa cửa là một thánh giá lớn; hai tay thánh giá trên dưới, được chạm khắc những chùm hoa hồng; giường và chân thánh giá ở hai bên là tám chữ phúc, chỉ tám mối phúc thật, là hiến chương nước trời của Chúa Giusê hằng giảng dạy; dưới chân thánh giá là các đố chân cửa của 2 cánh được trạm khắc tứ quý: Tùng, Cúc, Trúc, Mai, là bốn loài cây tượng trưng cho người quân tử; cây Mai tượng trưng cho tính cách nhẹ nhàng thanh cao; cây Trúc có thân mọc thẳng lên, tượng trưng cho tính cách cương trực ngay thẳng; cây Cúc là loài đơm bông cho độ chớm thu, là khi mọi thứ cây thu mình lại, đó là hình ảnh diễn tả sự vượt (thắng) lên trên ngoại cảnh: Cây Tùng là loài cây luôn luôn hiên ngang, đặc biệt cây tùng luôn xanh tốt trong suốt mùa đông, là khi tất cả mọi loài cây đều trút lá. Vì thế bốn loài cây này được chọn làm biểu tượng cho người quân tử. 
Nhìn sang 2 tháp phụ hai bên của tháp chính, mỗi tháp phụ được kiến trúc tiến về phía trước tháp chính là 2 mét; đỉnh của tháp phụ có biểu tượng bông sen, có độ cao ngang dưới chân tượng Đức Mẹ ở tháp chính, có ý tôn vinh dâng kính Đức Mẹ tinh tuyền "tội nguyên không nhiễm khác thường, hoa sen trên nước chẳng vương bùn lầm". 
Mỗi tháp phụ còn có hai mái được kết cấu đưa về cạnh mặt tiền tháp chính là 2 mét, vì thế mái 3 và mái 4 của tháp chính được giao đầu với mái một, mái hai của tháp phụ, tạo lên biểu tượng tam quan có ý nghĩa thiên địa nhân, trời, đất và con người hoà quyện với nhau; Theo triết học phương đông tam tài, còn nói lên mối quan hệ ràng buộc hữu cơ trong vũ trụ; con số 3 giúp người tín hữu ý thức mầu nhiệm một Thiên Chúa Ba Ngôi.  
Dưới tầng một cửa 2 tháp phụ, mỗi tháp có một cuốn thư, bên trái đề ngày khởi công xây dựng, bên phải để ngày khánh thành. 
Dưới cuốn thư: Về bên trái có bức họa Chúa chiên lành, trên bức hoa có đề Hán tự "Ngã Chi mục tử" ta là mục tử (chất liệu chữ cũng bằng INOX Vàng). Bên phải có bức họa lấy từ phúc âm thanh Gioan cũng đề hán tự "ngã chi chiếu minh" Ta là ánh sáng. Chất liệu chữ INOX Vàng đều mua tại Trung Quốc. 
- Các cột của các tháp chính phụ, hai tầng cột dưới được đắp các dây thừng quấn quanh cột, khoảng trống giữa các dây được đắp vẽ các cành nho, miến xum xuê, với chùm nho nặng trĩu quả, bông miến trĩu hạt. bên cạnh cột tháp 2 bên, là hai cửa phụ ra vào đền thánh, trên my cửa phụ được đắp các bông lúa miến trĩu hạt; để cùng nói lên hai sản phẩm này thường dùng làm của lễ dâng lên Thiên Chúa, được Chúa Thánh Thần Thánh hoá thành Mình Máu Thánh Chúa, để nuôi sống linh hồn chúng ta. 
Các chân cột tháp còn được đắp vẽ những đế bồng tròn, được trang trí trên bồng là những lá đề, hoa móc cùng được thể hiện liên kết, một kiến trúc với các chân cột nhà thờ cho đồng bộ một kiến trúc chính là nhà thờ cột gỗ. Toàn bộ mặt tiền nhà thờ và các tháp chuông mang dáng dấp kiến trúc đông tây, hiên ngang, hoành tráng, kiên cố và thẩm mỹ, với những đường chông, những hoa leo, hoa hồng, những con song tiện, những dẫy đường chông, hoa thoáng, những dãy lá lật, các hàng lan can. Những vòng tròn, hoa thoáng, hoa bèo, những vanh cuốn, cửa võng, những bông mai xinh xinh, những cuốn thư nền gấm, những cột đèn soi, bắt 5 mái cong; Những bức đại tự, những bức họa, những biểu tượng quả bầu, bông xen; những cành nho trìu quả, những bông lúa miễn trĩu hạt rất mỹ thuật… mang đầy ý nghĩa Kinh Thánh và nghệ thuật thánh.  
Những tay có các loại vươn lên và vươn ra để chống xệ bẩy, xệ mái; rồi những rạng lá đề chắn thuỷ được đắp tỉa, cùng với những tấm gỗ làm lá mái, làm chắn thuỷ, được chạm lộng như những hàng chông, hàng con chiện, với những bông hoa đan xen nhau, và được kéo dài trước các chân mái tháp, mái nhà thờ. Vừa đảm bảo độ bền cho mái hiên; vừa đảm bảo mỹ thuật kiểu kiến trúc cung đình thêm duyên dáng; cho chu vi phía ngoài nhà thờ trông lên các mái tháp chuông, các mái nhà thờ trên dưới đẹp lên một cách lộng lẫy.   
Thưa quý vị: Tổng thể công trình Đền Thánh Đức Mẹ Mân Côi từ trong ra ngoài, từ ngoài đến khuôn viên; các hạng mục công trình kiên cố bền vững, khiến người xem nghĩ ngay đến sức bền của công trình chắc hẳn sẽ dài lâu xuyên thế kỷ; các hoạ tiết hoa văn tinh tế mềm mại uyển chuyển, sinh động lộng lẫy, rực rỡ, trang trọng, uy nghiêm và vô cùng mỹ lệ, từ trong nhà thờ đến ngoài nhà thờ nơi nào cũng đẹp, cũng "bắt mắt ưa nhìn" và động lòng cảm mến, kính phục, rất là phong phú sinh động, mang nhiều ý nghĩa của văn hoá dân gian.
Vào trong ngôi Đền thánh Đức Mẹ Mân Côi một công trình có thể coi là hội tụ của hai nền kiến trúc Đông - Tây. 
Kiến trúc phương tây thể hiện qua lối vào ra ở cuối, ở đầu, ở ngang nhà thờ, lòng nhà thờ rộng, cao vút lên là một trong những nét đặc trưng của kiến trúc Gothic. 
Kiến thúc Á Đông cụ thể là kiến trúc Việt Nam thể hiện qua những cách bố trí cột, kèo, xà, rường trụ, kẻ, tầu bẩy, ngưỡng, bạo, cánh cửa; các chi tiết chạm trổ hoa văn uyển chuyển, tinh tế, nhẹ nhàng. Trông thật vô cùng lộng lẫy ấn tượng. Lần đầu tiên khiến ta choáng ngợp trước bộ khung nhà với những xà, trụ, rưỡng, kẻ, cột.v.v… toàn gỗ lim xanh. Đặc biệt nhà thờ có bốn hàng cột đứng xong hàng bằng 44 cây cột cao lừng lững, vững vàng trên thạch tảng; trong đó hai hàng cột giữa gồm 22 cây cột là có độ đồng đều nhau, mỗi cột 2m25. Nhà thờ được bố trí theo lối kiến trúc thượng thu hạ thách, tức là càng lên cao, càng thu vào, cụ thể là mỗi cây cột cứ cao lên một thước, là nghiêng vào từ 1,5 - 2cm; Nhà thờ gồm có 11 vì kèo chính cao; 4 vì kèo phụ thấp nằm trong vì chính cho 3 gian cung thánh; cùng những trụ đấu sen, đấu bát, đấu đại, đấu tròn, đấu vuông; Câu đầu kép đúng quy cách với kiến trúc nhà kẻ chồng diêm; mỗi vì kèo chính nặng chừng 30 tấn. Đã nhờ khối óc bàn tay các bác thợ mộc tinh hoa là con cái Nam Am, đã dầy công xây dựng từ kiến trúc đến tạo tạc, để có những nét hình hoa văn mềm mại; mang mộng khít như tạc; đường bào óng chuốt như mài, với công lao ấy (nhà xứ Nam Am đã ghi nhận công lao đó của 15 các chú bác thợ mộc của Nam Am vào sổ vàng truyền thống, người đứng đầu đoàn thợ có công lớn nhất cho cả thiết kế và trực tiếp thi công là ông Giuse Khổng Trung Mạn). 
Nhìn lên cổ mái chồng diêm của nhà thờ 2 bên, ta thấy ngoài các cửa chớp lấy ánh sáng; ta còn thấy lạ 20 mươi mầu nhiệm Mân côi được hoa mầu trên những tấm kính lộng lẫy sáng láng. Từ bên phía tay trái: Năm sự Vui, Thiên Thần truyền tin cho Đức Mẹ, năm sự Sáng, Chúa Giêsu rao giảng nước Trời, phía phải năm sự Thương, nói về cuộc tử nạn của Chúa, và kết thúc ở bên phải năm sự Mừng: Khi Đức Mẹ được hưởng triều thiên trên thiên quốc. 
Nhìn xuống chắn phong hai nách nhà thờ, phía trên ta thấy 14 đường Thánh giá được trạm khắc tinh sảo, sơn son thiếp vàng rực rỡ; ảnh sự tích từng đường Thánh giá; mầu ảnh lấy từ toà thánh Rôma, chất liệu các cụ làm bằng sơn dầu, hơn một trăm năm rồi giờ vẫn còn như mới (một vị cán bộ nghiên cứu tôn giáo ở Trung ương khi về tham quan nhà thờ, có cảm tưởng là những bức ảnh của 14 đường Thánh giá cũ của Nam Am ta, thật đáng quý và hiếm có). 
Nhìn vào hai hàng cột cái chạy dài từ giáp tháp lên tới toà vàng: Khoảng cao của cột ở độ dưới thềm chồng diêm, trên đầu mái dưới ta thấy các đấu bát phân tầng, được trạm khắc tròn trĩnh tinh sảo xung quanh của mỗi cột, từ đấu nọ sang đấu kia được gắn kết các cửa võng, được khắc chạm thông phong với những con chiện tầu xinh xắn, được ráp bóng và phun bê u mầu mận chín, cùng hoà chung với mầu nâu gỗ lim của các cột; Những đấu bát, cửa võng để phân tầng, phân gian; làm cho độ cao, độ rộng nhà thờ được hài hoà cân đối, đẹp lên nhiều, lại có ý nghĩa tôn phong những mầu nhiệm Mân côi, những đường Thánh giá trên dưới, trong mỗi gian của Nhà thờ. 
Nhìn lên 3 gian cung thánh, mắt ta chói người bởi cảnh 3 gian cung thánh bàn thờ thật trang trọng, lỗng lẫy và vô cùng mỹ lệ, khiến nhiều ký giả, nhiều người, nhiều đoàn tới tham quan chiêm ngắm phải thốt lên rằng "chưa từng thấy những gian cung thánh ở đâu lộng lẫy rực rỡ, lại có nhiều hoạ tiết hoa văn phong phú của nền văn hoá dân gian ; Nhất là rất nhiều biểu tượng có ý nghĩa thánh kinh cao trọng, thật là một tuyệt tác hiếm nơi có. Có thể đẹp nhất so với các gian thánh trong các nhà thờ trên đất nước Việt Nam. Thực vậy tổng thể các hạng mục 3 gian thánh cùng các họa tiết hoa văn, được trưng bày theo kiến trúc cung điện uy nghi, cung kính, từ trên cao xuống, từ ngang hai bên trung tâm vào là cả một tổng thể có hệ thống trình tự. 
Nhìn lên bàn thờ mặt chính diện cũng như tả hữu hai bên là cả một hệ thống các toà vàng, Chúa, Đức Mẹ, các Thánh nam nữ của Thiên Chúa ngự: Đức Mẹ Mân Côi Quan thầy Làng xứ, trao tràng hạt cho thánh Đa Minh, thánh Cataxina hai bên (bộ Rosariô). Tiếp đến trung tâm tượng lái Tim Chúa Giêsu: 4 toà 2 bên, 4 thánh quan thầy 4 khu, thánh Giuse khu Đông, thánh Gioan khu Nam, Đức Mẹ Vô nhiễm nguyên tội khu Trung; thánh Anê Đồng trinh khu Đoài. Dưới tượng lái tim Chúa là nhà tạm để Mình Thánh Chúa, đến bàn thờ Chính, thành toà chính bàn thờ là những bức cửa cuốn của thánh điện; bức chính giữa có 5 cửa cuốn, tính từ trái sang phải, một biểu tượng trong cửa cuốn thứ nhất, là một hình trái tim rực lửa, trên có thánh giá, hai bên trên dưới một bên có cành nho 3 chùm quả, một bên có cành hoa 3 bông; Sang cửa cuốn thứ hai trong lòng cửa cuốn chỉ có một cành hoa gồm 3 bông; cửa cuốn thứ 3 trong lòng cửa cuốn có một chữ M, được cách điệu lớn và kỹ mỹ thuật sắc sảo, các đường nét của chữ: ý chỉ Đức Mẹ. Xung quanh chữ M, ngang trên chữ M là 7 ngôi sao, mỗi cành có 4 bông x 2 cành = 8 bông; Sang bức cửa cuốn thứ 4, lòng cửa cuốn là một cành hoa có 3 bông; sang cửa cuốn thứ 5, trong lòng cửa cuốn là một trái tim rực lửa, hai bên trái tim là 2 cành lá, dưới cùng hai cành lá, là hai bông hoa. Toàn bộ 5 biểu tượng, ở năm cửa cuốn thành bàn thờ chính toà giữa, có ý nghĩa chỉ mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi được diễn tả bằng 3 câu kinh cầu trái tim, đầu tiên là: Lái tim Đức Chúa Giêsu con Đức Cha hằng có đời đời; lái tim Đức Chúa Giêsu bởi phép Đức Chúa Thánh Thần, đã dựng nên trong lòng rất Thánh Đức Mẹ đồng trinh; Lái tim Đức Chúa Giêsu hợp làm một cùng ngôi thứ hai cho giọn.  
Hai thành bàn thờ cạnh, trung tâm thành bàn thờ bên phải là biểu tượng chỉ mầu nhiệm cứu độ; Trung tâm thành bàn thờ bên trái là biểu tượng chỉ mầu nhiệm Mân côi.  
Hai bên bàn thờ Toà Đức Mẹ hằng cứu giúp, Toà Thánh Cả Giuse, thành bàn thờ chính được kiến trúc một cách tôn nghiêm, cung kính. Trước các cửa toà là tầng tầng, lớp lớp những vanh cuốn, những cửa võng đơn kép được chạm khắc tinh tế, nhẹ nhàng mềm mại, uyển chuyển; nối tiếp nhau, cao thấp, kéo dài về mặt tiền gian thánh khiến toà sâu thăm thẳm: nhưng lại rõ ràng minh bạch các tác phẩm, là do nghệ thuật cách điệu to nhỏ, ngắn dài, cao thấp, của con mắt, bàn tay, các nghệ nhân trạm khắc (trước đây như ông Cửu Thuyết trưởng đoàn thợ đã từng làm cung điện nhà vua được cửu phẩm; bây giờ là ông Nguyễn Văn Chính trưởng đoàn, người xứ phạm pháp Bùi Chu cũng là những bậc thầy).  
Cạnh mỗi toà là những tháp bút, bút đòng, đỉnh đòng như những vì sao tất cả đã được cách điệu, tượng trưng cho việc cao trọng, gương sáng của các đấng thánh, để chúng ta cùng soi chung. 
Những cột nõn dong, những bông sen, những tấm y môn, những hàng hoa thoáng, những đường chông, đường chỉ, những con chiện, con chấu, những bức rèm, bức cuốn, đơn kép, những đầu rồng, cánh nhạn, những chữ phúc, chữ thọ. Rồi nơi này là tùng cúc trúc mai, nơi kia hồng huệ lan sen; Đây hoa leo, kia lá lật. Được chạm lộng, chạm thông phong. Sơn son thiếp vàng thật là sinh động phong phú của nền văn hoá dân gian. 
Trên các vanh cuốn cửa võng của toà cung thánh, là những tấm bưng được chạm khắc với nhiều hoạ tiết hoa văn, theo văn hoá dân gian phụ hoạ, cho nhiều biểu tượng thánh Kinh có ý nghĩa mầu nhiệm sâu sắc.
 
Nhìn lên mặt tiền các gian thánh, trung tâm trên cùng là một toà cao nhất, trong toà có một ngai vàng biểu tượng Thiên Chúa Cha đích điểm chúng ta yêu mến kính thờ. Dưới chân ngai là một bức đại tự mang dòng chữ "Đấng ngự trên ngai phán: Ta là Anpha và Ômêga" là tác phẩm Cha xứ Nguyễn Văn Ninh đương kim, được giải nghĩa những chữ trên, bằng hai câu đối treo trên hai cột cái Nam - Bắc của lòng giữa nhà thờ. Anpha là đầu cội rễ mọi sự, Ômêga là cùng sau hết mọi loài" Đấng tự mình mà có, có trước đời đời, có sau đời đời, chẳng cùng. Amen. Kế tiếp dưới là một thánh giá kép trên mũ triều thiên, đến quả địa cầu; trên mặt giường Thánh giá chạy hết đông tây, tay Thánh giá chạy hết Nam - Bắc quả địa cầu, xung quanh địa cầu là tràng hạt Mân côi, là biểu tượng Rosariô: 
 
Vườn ro sa bao quanh trái đất 
Phép ngắm ro sa nguyên cội rễ
 
Suy ơn chuộc tội loài người thế
Tự sinh nhi tử, tử nhi sinh
 
 
Công nghiệp vô cùng khôn xiết kể
Hai áp phích hai bên hướng vào biểu tượng, mang hai dòng chữ Latinh: một bên được dịch là: Nữ vương rất Thánh Mân côi, một bên là cầu cho chúng con. 
- Kế tiếp ảnh trái tim Chúa Giêsu chính giữa trên hình ô van, nam bắc hai bên là 6 thánh tông đồ: Phêrô, Phaolô, Gioan, Anrê, Giacôbê Tiền, Mát Thêu, còn 6 tông đồ Philipphê, Tôma… được toạ lạc trên các hình ô van của các tấm bưng giữa, và tấm bưng trong. Các ảnh tông đồ chất liệu bằng xứ tráng men bền và đẹp. 
- Trung tâm tấm bưng thứ hai biểu tượng mũ Giáo hoàng, hai bên là chìa khoá. Biểu tượng Thánh Phê-rô, người đầu tiên được Chúa Giêsu truyền cai trị hội thánh Chúa ở trần gian. 
- Trung tâm tấm bưng bên trong (thứ 3) một biểu tượng mặt nhật, chỉ Chúa Giêsu là mặt trời soi đàng công chính. 
+ Trở sang cuốn cạnh bên phải: trên tấm bưng mặt tiền một biểu tượng cây thánh giá, nằm trên thánh giá một quyển phúc âm đã mở; trên sách phúc âm là trái tim Chúa Giêsu: có ý nghĩa Phúc âm là: Lời Chúa quả tim cũng là của Lễ với thánh giá ơn cứu độ. Dâng lên Thiên Chúa Cha còn là mạnh đầy rẫy hằng chảy mọi ơn lành nuôi sống loài người chúng ta. 
- Tấm bưng thứ hai một hình đuôi vược nằm dưới, trên một hoa hồng, trên hoa hồng là một trái tim phát các tia sáng có ý là một huy hiệu trái tim Chúa, được đối xứng huy hiệu trái tim Đức Mẹ cũng hình đuôi vược tấm bưng bên trái song song. 
- Tấm bưng trên toà thánh Giuse ngự, có biểu tượng mũ Giám mục, ý nghĩa Đấng bản quyền nhân danh Chúa cai trị Đền Thánh. 
- Tấm bưng thành Toá Thánh Giuse: Có biểu tượng con chiên nằm trên bàn tiệc, tay chiên vác thánh giá và cờ chiến thắng, nói lên: Chiên mới, chiên chiến thắng tội lỗi, chiến chiến thắng khải hoàn, chiên đã được sát tế làm của lễ dâng về Chúa Cha và nuôi sống chúng con hằng ngày. 
+ Nách bên phải tấm bưng mặt tiền một hình trái tim Chúa rực lửa, có nghĩa lái tim Chúa Giêsu là lò lửa mến hằng cháy. 
- Tấm bưng thứ hai một biểu tượng có hình Thánh giá kép bên trên một mũ triều thiên, dưới triều thiên là hai trái tim, nói lên ý nghĩa Đức Mẹ đã đồng công chuộc tội cùng Chúa Giêsu. 
- Tấm bưng thứ 3 trên my cửa buồng tượng, một biểu tượng giây tô loa, chén lễ, sách phúc âm có nghĩa chức vụ tư tế, tế lễ. 
- Trên biểu tượng giây tô loa có tấm bưng được chạm khắc một chữ M lớn, cách điệu, tượng trưng là Đức Mẹ, xung quanh chạm khắc 1 cành 12 bông hoa; cành phía trên 5 bông, chỉ 5 sắc hoa chung cho các loài hoa dâng kính Đức Mẹ; cành phía dưới 7 hoa theo điểm tích Việt Nam riêng là hoa quỳ, sen, lê, cúc, mai, đơn, lan có nghĩa để con cái Việt Nam dễ suy ngắm hoa lòng mọi người, và dâng nỗi lòng mình lên Đức Mẹ được sâu sát, thiết thực hơn; 5 sắc 7 hoa là mười hai ngọc: Được tóm lại mấy câu ý nghĩa sau:  
Hoa 5 sắc đã giãi niềm 
Lại trưng cổ điển dâng thêm kim đề
 
Bẩy hoa mượn chỉ nghĩa mầu
 
Hình dung ơn phúc kính tâu lạy mừng
 
Hợp cùng năm sắc điều dâng
 
Dâng mười hai ngọc kết thành triều thiên
 
+ Trở sang các cuốn cạnh bên trái, tấm bưng mặt tiền một biểu tượng trái tim xung quanh trái tim là những hoa hồng, có ý nghĩa trái tim Đức Bà như hoa hường mầu nhiệm vậy. 
- Tấm bưng thứ hai biểu tượng hình đuôi vược, trên đuôi vược một hoa hồng, trên hoa hồng một trái tim phát ra các tia sáng là huy hiệu trái tim Đức Mẹ, xứng với trái tim Chúa bên phải. 
- Tấm bưng thứ 3 trên toà Đức Mẹ hằng cứu giúp, có biểu tượng mũ giám mục: Có ý nghĩa đã được diễn giải bên phía phải. 
- Tấm bưng thành toà Đức Mẹ hằng cứu giúp, một thánh giá kép trên mũ triều thiên, một hình trái tim Đức Mẹ lớn; hai trái tim nhỏ nằm trong, xung quanh lái tim là tràng hạt, dưới trái tim một thanh kiếm, một cành vạn tuế có ý nghĩa nói lên mầu nhiệm cứu độ, có Đức Mẹ đồng công cứu chuộc, khi đóng đanh con cũng như đóng đanh trong lòng Đức Mẹ vậy; một lưỡi gươm đâm thâu 2 trái tim Mẹ và con, nói lên sự đâu khổ tột cùng của Mẹ và Con; Cành vạn tuế nói lên sự chiến thắng được gắn kết của sự khổ đau, để nói lên rằng sự chiến thắng vinh quang nào cũng không phải ngẫu nhiên mà có được, phải qua hy sinh gian khổ mới có hạnh phúc đích thực. Biểu tượng này còn giúp chúng ta suy ngắm mầu nhiệm: khi lần hạt mân côi phải suy ngắm về ơn cứu độ, về mọi ơn lành của chúng ta có được, đều bởi ơn Chúa cứu độ mà ra; cùng xin Đức Mẹ bầu cử trước toà Chúa cho chúng ta luôn mãi. 
+ Sang nách trái: Tấm bưng mặt tiền: một hình trái tim Đức Mẹ, trên đó một ngôi sao: có nghĩa lái tim Đức Bà như sao mai sáng vậy. 
- Tấm bưng thứ hai một thánh giá kép trên mũ triều thiên; Hai trái tim dưới mũ triều thiên; nói lên trái tim Đức Mẹ cùng trái tim Chúa đã đồng công chuộc tội (đối xứng vế phải). 
- Tấm bưng thứ ba trên my cửa buồng áo một biểu tượng cây Thánh giá, dưới chân Thánh giá một mỏ neo; ý chỉ thánh Phê-rô làm nghề chài lưới trên biển, thánh giá là bến tầu neo đậu để cứu mọi người trong giông tố bão táp. 
- Tấm bưng bên trên thánh giá mỏ neo, một biểu tượng chữ M lớn cách điệu: 1 cành gồm 12 bông hoa trên dưới, cùng có đồng ý nghĩa được diễn giải trên tấm bưng cùng bên nách phải (đối xứng). 
- Trở lại trung tâm các gian thánh, trên các toà thánh là những biểu tượng, chính giữa trung tâm cung thánh là một bàn thờ chính mới, chất liệu bằng gỗ mun quý hiếm (với giá hiện hành tới 100 triệu đồng Việt Nam một khối, gỗ có giá trị đắt gấp 5 lần gỗ lim hiện hành). Bàn thờ được chạm khắc kiểu chân quỳ, dạ cá sang trọng; xung quanh 4 mặt của dạ cá là bức cửa võng gắn kết, được chạm thông phong với nhiều những bông miến, cành nho trĩu qua, trĩu hạt, liên kết nhau; Trung tâm bức chạm mặt tiền, mặt hậu là biểu tượng 5 chiếc bánh trung tâm hai đầu biểu tượng hai con cá, có ý nghĩa kinh thánh " 5 chiếc bánh phát cho 5 nghìn người ăn no". Vai của chân quỳ chạy xung quanh là thành của bàn thờ, được chạm lộng những con chiện, những lá sồi được cách điệu, thành những bức rèm che trông cực kỳ mỹ thuật và phong cách, trên đó là bức chạm thông phong chạy quanh bàn thờ, những cành lá, quả, nho xinh xắn; trên cùng một bức chạm lộng chạy quanh mặt bàn thờ, là những hình bán nguyệt nối nhau lên, xuống, như một bức rèm che. 
+ Tượng chịu nạn cạnh trước bàn thờ nằm trên một thánh giá, giường, tay, là cây gỗ tròn, được cách điệu bởi các mấu đầu mặt xung quanh giường và tay, có ý diễn tả lại đích thực cây thánh giá nguyên thuỷ, cây gỗ được phát các cành, quan quân đã dùng khi đóng đanh Chúa Giêsu, cách đây trên hai ngàn năm, cùng cả tượng và thánh giá đứng trên một biểu tượng, theo triết học phương đông thái cực sinh lưỡng nghi; lưỡng nghi sinh tứ tượng, tứ tượng sinh bát quái; bát quái sinh muôn loài muôn vật; với giáo lý công giáo mọi thứ đó là do Chúa tạo dựng nên; con người vì tội lỗi đã làm nó xấu đi. Nhưnh vì yêu thương thế gian đến nỗi Chúa phải xuống thế làm người chịu đóng đinh trên thánh giá; cũng chính là Chúa tể càn khôn cứu hết thảy từ đại linh quang xuống đến muôn loài muôn vật. 
+ Toà giảnh cạnh phía trái gian thánh, mặt đứng của toà có biểu tượng:  một cây gỗ tròn dài chừng một mét, đứng trển một bàn, quá hình bán nguyệt, mặt trên của cột là mặt toà giảng, nơi để sách phúc âm, vành toà giảng là một bức chạm thông phong mang hình cây trúc, có ý công thẳng, bộc trực của chân lý; xung quanh cột được chạm lộng 3 con rồng ý chỉ 3 vua phương đông đền thờ lạy, ngưỡng vọng chân lý đấng cứu thế, theo như kinh Thánh, theo triết lý phương đông, rồng là vua; nhưng theo triết lý tây phương thì rồng rắn biểu thị là sự dữ, thì đó lại là 3 kẻ thù: Tính xác thịt, thói thế gian; Chước ma quỷ, là những kẻ thù luôn cần có được sự thánh hoá, trừ diệt bởi lời và ơn Chúa giúp, để diệt những thù nghịch ấy. 
+ Trở lại trung tâm các gian thánh trên cùng là các toà vàng, cạnh các toà vàng hai bên mỗi toà, tầng toà trên cũng như tầng toà dưới; 2 toà cạnh là toà Đức Mẹ, toà thánh Giuse, toàn bộ hai bên mỗi toà là những tháp bút, bút đồng; trước các cửa toà là những cửu võng, chân các cửa là những bậc tam cấp hướng lên các toà; được các đường chông, đường lá lật, đường lá quả nho đan sen, đường hình bán nguyệt nối kết nhau được dát vàng, kéo dài ngang suốt các bậc, như  những bức rèm, được cách điệu cho tâm cấp; dù có xa từ cổng cái nhà thờ, nhìn lên bàn thờ vẫn rõ ràng bậc tam cấp rất trang trọng, uy nghiêm cho các toà các thánh ngự.  
Nhà thờ, cung thánh toà vàng Đền Thánh Mẹ Mân Côi Nam Am, một tác phẩm nghệ thuật độc đáo, với những ý tưởng được hội tụ về kiến trúc, về hội họa của các đấng bậc trước như: cha chính Toàn, chính Khâm, tràng Sỹ, cha Chiểu trước đây, cha xứ Ninh hiện nay. Với thời gian từ 1870 đến 1910 cùng với các nghệ nhân bầu dương điêu luyện như Cửu thuyết Nam Định trước đây và ông Mạn, ông Thuỷ, ông Chính, là những kỹ sư, nghệ nhân, cùng các đoàn thợ mộc nề có tay nghề cao, lành nghề và sự quyết tâm của nhiều ban hành giáo các khoá, và sự ý hợp tâm đầu của toàn thể giáo dân mới tạo nên một công trình lớn lao như vậy.  
Tổng kinh phí của công trình là 15 tỷ (2 tỷ cho toà vàng; 13 tỷ cho Nhà thờ). 
Với 13 năm giáo dân vừa xây dựng vốn quỹ, vừa tiến hành xây dựng hàng trăm các bác thợ mộc, thợ nề của Nam Am, của Liêm Khê, của Phạm Pháo Bùi Chu, cùng 60 nghìn công của giáo dân ta đã miệt mài, dốc lòng lấy công tạo dựng nhà Chúa.  
Bàn thờ, và nhà thờ đã được Đức Giám Mục Giuse Vũ Văn Thiên làm phép thánh hoá và sức dầu, ngày 15/10/2006 nhân ngày khánh thành và cung hiến Đền Thánh Đức Mẹ Mân Côi.   
T/M BHG NHÀ XỨ NAM AM SOẠN THẢO  

Nguồn: giaoxuvietnam

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét